19 thi hành Luật HKDD Việt Nam
Sau 19 năm thực hiện, Luật HKDD Việt Nam đã thiết lập được hành lang pháp lý cho hoạt động hàng không của Việt Nam. Hệ thống quản lý và giám sát an toàn hàng không được thiết lập phù hợp với tiêu chuẩn của ICAO; đảm bảo năng lực giám sát an toàn bay theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện cho các hãng hàng không Việt Nam tiếp cận tới các thị trường khó tính như Bắc Mỹ, Châu Âu. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia đứng đầu khu vực về năng lực giám sát, quản lý an toàn hàng không.
Dây chuyền cung ứng các dịch vụ bảo đảm hoạt động bay, hệ thống cơ sở điều hành bay đảm bảo độ tin cậy, tính sẵn sàng, mức độ dự phòng và an toàn khai thác ở mức cao cho tất cả vùng trời sân bay, vùng FIR do Việt Nam quản lý, điều hành.
Hệ thống bảo đảm an ninh hàng không tại Việt Nam được thiết lập đầy đủ, vận hành hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi, bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn hoạt động hàng không dân dụng, được ICAO đánh giá cao; đáp ứng yêu cầu của các đường bay có tiêu chuẩn cao về an ninh hàng không: Hoa Kỳ, Châu Âu, Trung Quốc.
Các cảng hàng không, sân bay được đầu tư, xây dựng, cải tạo nâng cấp đã nâng cao năng lực khai thác, bảo đảm an ninh, an toàn, phục vụ nhu cầu an ninh quốc phòng, góp phần tích cực trong việc phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, thực hiện liên kết vùng và kết nối quốc tế.
Đến thời điểm cuối năm 2024, số lượng tàu bay khai thác của 05 hãng HKVN là 211 tàu và đều có kế hoạch tiếp tục bổ sung, tăng cường đội tàu bay.
Thị phần vận chuyển quốc tế luôn đạt trên 42% với năng lực cạnh tranh ngày càng cao của các hãng hàng không. Hoạt động hàng không chung bước đầu hình thành và phát triển đa dạng, phong phú với nhiều loại hình khai thác cơ bản đáp ứng nhu cầu kinh tế, nhu cầu của người dân. Công tác quản lý chất lượng dịch vụ ngành hàng không ngày càng được cải thiện, đặc biệt chất lượng công tác dịch vụ vận chuyển hành khách được nâng cao, tiệm cận dần với chất lượng dịch vụ quốc tế...
Những bất cấp, tồn tại
Bên cạnh các kết quả tích cực đã đạt được, trong quá trình triển khai thi hành Luật HKDD Việt Nam đã xuất hiện một số tồn tại, phát sinh trong công tác quản lý nhà nước chuyên ngành về hàng không dân dụng.
Nội dung quy định về Nhà chức trách hàng không, người đứng đầu Nhà chức trách hàng không trong Luật HKDD Việt Nam vẫn chưa đảm bảo đầy đủ theo các quy định của ICAO.
Quy định về an toàn hàng không chưa đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ đối với các lĩnh vực hoạt động hàng không (cảng hàng không, sân bay, vận tải hàng không, quản lý hoạt động bay, khai thác tàu bay), chưa đáp ứng đầy đủ quy định của ICAO và thông lệ quốc tế.
Quy định về khai thác tàu bay và xuất khẩu tàu bay chưa phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; Quy định về quy hoạch vùng thông báo bay (FIR) tại Luật HKDD Việt Nam và Luật Quy hoạch chưa phù hợp với quy định của quốc tế.
Các quy định về ký hợp đồng với nhân viên hàng không trong Luật HKDDVN chưa phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động và cách thức vận hành thị trường lao động hàng không trên thế giới, chưa tối ưu hóa công tác tuyển chọn, sử dụng lao động.
Các quy định về trách nhiệm bảo đảm an ninh hàng không cũng cần được cập nhật để đảm bảo tính pháp lý do công tác quản lý nhà nước về an ninh hàng không đã được Bộ Công an tiếp nhận.
Chưa có sự thống nhất trong “quy hoạch chi tiết cảng hàng không, sân bay” tại Luật HKDD Việt Nam và “quy hoạch cảng hàng không, sân bay” tại Luật Quy hoạch; quy định về thẩm quyền trong công tác lập quy hoạch đối với sân bay chuyên dùng...
Hệ thống pháp luật về đầu tư, xây dựng có nhiều thay đổi; công tác bảo trì, nâng cấp, mở rộng các công trình hàng không có tính chất lưỡng dụng gặp nhiều khó khăn do thiếu các quy định; các quy định về “doanh nghiệp cảng hàng không”, “người khai thác cảng hàng không”, “dịch vụ hàng không”, “dịch vụ hàng không tại cảng hàng không, sân bay” chưa đảm bảo tính rõ ràng, thống nhất, không phù hợp với thực tiễn quản lý gây khó khăn, cản trở việc phát triển, nâng cao chất lượng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Chưa có quy định về kế hoạch phát triển đội tàu bay của các hãng hàng không Việt Nam phải phù hợp với kế hoạch và năng lực kết cấu hạ tầng, năng lực giám sát an toàn hàng không của Nhà chức trách hàng không…
Do đó, Luật HKDD Việt Nam cần phải được xem xét để thay thế nhằm thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách trong lĩnh vực hàng không dân dụng; khắc phục những vướng mắc, bất cập cũng như đề xuất, giải quyết các vấn đề mới, vấn đề phát sinh. Đồng thời khơi thông các điểm nghẽn, tạo ra động lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, đảm bảo quốc phòng – an ninh trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Xây dựng Luật HKDD Việt Nam (thay thế)
Việc xây dựng Luật HKDD Việt Nam (thay thế) lần này được thực hiện tuân thủ, phù hợp với Hiến pháp, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; đảm bảo sự tương thích với các Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đồng thời tăng cường hội nhập quốc tế trong lĩnh vực hàng không dân dụng trên cơ sở chia sẻ về mục tiêu, lợi ích, giá trị, nguồn lực và tuân thủ các quy định chung trong khuôn khổ các điều ước quốc tế; phát huy những ưu điểm của Luật HKDD Việt Nam, bổ sung, thay thế các nội dung không phù hợp, cản trở sự phát triển của lĩnh vực hàng không dân dụng và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển hàng không của các nước tiên tiến trên thế giới.
Hơn nữa, cần thúc đẩy hoạt động hàng không trên nguyên tắc An toàn - Chất lượng - Hiện đại - Chuyên nghiệp - Minh bạch; phát triển hàng không dân dụng theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp, cũng như tạo cơ chế mở để thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư kinh doanh hàng không, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp; tăng cường phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước về hàng không dân dụng; nâng cao hiệu quả chất lượng công tácphòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; trong quản lý nhà nước về hàng không dân dụng. Đặc biệt, tạo đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số gắn với bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển bền vững trong hoạt động hàng không dân dụng.
Những chính sách mới của Dự thảo Luật HKDD Việt Nam (thay thế)
Dự thảo Luật đã thể chế các định hướng trong Văn kiện Đại hội Đảng Khóa XIII, các Nghị quyết, kết luận của Đảng, của Quốc hội. Đặc biệt đã thể chế hóa các nội dung liên quan đến Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển, cũng như cập nhật các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Dự thảo Luật HKDD Việt Nam (thay thế) có nhiều nội dung mới:
Một là, hoàn thiện khung pháp lý về công tác quản lý nhà nước chuyên ngành về hàng không dân dụng; bảo đảm thực hiện các quy định của điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các khuyến cáo của ICAO.
Tăng cường năng lực giám sát, kiểm tra bảo đảm an toàn hàng không cho cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành hàng không dân dụng; bổ sung khung pháp lý để Nhà chức trách hàng không và Cảng vụ hàng không nhằm nâng cao vai trò và chức năng của mình.
Xây dựng các chính sách hỗ trợ, ưu đãi phát triển công nghiệp hàng không, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực để phát triển ngành hàng không hiện đại, phát triển bền vững.
Hai là, hoàn thiện khung pháp lý về an toàn hàng không đáp ứng các yêu cầu của ICAO về hệ thống quản lý an toàn hàng không quốc gia; tuân thủ quy định của quốc tế trong việc bảo đảm vai trò độc lập của cơ quan điều tra tai nạn hàng không với Nhà chức trách hàng không.
Tăng cường sự phối hợp, quản lý giữa hàng không dân dụng, quân sự đối với công tác điều hành bay, quản lý bề mặt chướng ngại vật hàng không; thực hiện phân cấp, tăng cường trách nhiệm của các địa phương trong việc quản lý bề mặt giới hạn chướng ngại vật hàng không và độ cao công trình liên quan đến bề mặt chướng ngại vật hàng không.
Hiện đại hóa, tối ưu hóa tổ chức và sử dụng vùng trời nhằm nâng cao an toàn hàng không, hài hòa giữa phát triển hàng không, an toàn bay và quốc phòng -an ninh, phù hợp với ICAO và thông lệ quốc tế và tạo động lực thúc đẩy kinh tế -xã hội. Quản lý phương tiện hoạt động thường xuyên tại khu vực hạn chế cảng hàng không, sân bay đảm bảo an toàn hoạt động hàng không dân dụng.
Tăng tính chủ động của các đơn vị, doanh nghiệp trong việc quản lý, giám sát nhân viên hàng không, đảm bảo hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động quản lý của doanh nghiệp, thu hút nguồn nhân lực nhân viên hàng không, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao để đảm bảo nhu cầu, sự phát triển của hoạt động hàng không dân dụng.
Ba là, hoàn thiện khung pháp lý về an ninh hàng không; quy định rõ vai trò của công tác bảo đảm an ninh hàng không, cơ quan quản lý nhà nước về an ninh hàng không trong tình hình mới. Phân định trách nhiệm bảo đảm an ninh hàng không của các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền theo nguyên tắc 4 tại chỗ để việc bảo đảm an ninh hàng không kịp thời hiệu quả.
Bốn là, hoàn thiện khung pháp lý về cảng hàng không, sân bay, khắc phục các tồn tại trong công tác quy hoạch, đầu tư, xây dựng cảng hàng không, sân bay và thu hút các nguồn lực đầu tư, xây dựng phát triển cảng hàng không, sân bay.
Tạo hành lang pháp lý cho việc đầu tư, xây dựng cảng hàng không, sân bay hiệu quả, thực hiện công bố chuyển đổi cảng hàng không nội địa thành cảng hàng không quốc tế khi cảng hàng không nội địa đã đáp ứng các yêu cầu theo quy định của pháp luật; tạo điều kiện để kinh tế -du lịch các vùng miền phục hồi và phát triển.
Đồng thời xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong hoạt động đầu tư, xây dựng cảng hàng không, sân bay; phân định địa vị pháp lý, quyền và trách nhiệm giữa “doanh nghiệp cảng hàng không” và “người khai thác cảng hàng không, sân bay” phù hợp với quy định của pháp luật về doanh nghiệp; hoàn thiện các quy định về sân bay chuyên dùng, chuyển đổi cảng hàng không nội địa thành cảng hàng không quốc tế.
Năm là, hoàn thiện khung pháp lý về vận chuyển hàng không đảm bảo thực hiện các quy định và cam kết quốc tế về vận tải hàng không các chính sách về giá dịch vụ hàng không, sân bay đồng bộ với hệ thống pháp luật về giá, phí, lệ phí.
Đảm bảo quyền lợi của khách hàng, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp vận chuyển hàng không trong việc thực hiện các quy định về quyền, nghĩa vụ của người vận chuyển; thực hiện hoạt động điều phối giờ cất hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay hài hòa, hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đồng thời đảm bảo sự hài hòa, phù hợp trong việc phát triển đội tàu bay với sự phát triển của kết cấu hạ tầng cảng hàng không, sân bay, năng lực giám sát an toàn hàng không của cơ quan quản lý nhà nước….
Dự kiến Chính phủ trình Quốc hội Dự thảo Luật HKDD Việt Nam (thay thế) vào kỳ họp tháng 10 năm 2025 để xem xét, thông qua./.
Cục Hàng không Việt Nam (Cục HKVN) vừa ban hành Kế hoạch kiểm soát thủ tục hành chính năm 2025.
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Lê Anh Tuấn làm Trưởng ban Chỉ đạo. Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam Uông Việt Dũng làm Phó trưởng ban Thường trực Ban chỉ đạo chuẩn bị khai thác Cảng HKQT Long Thành.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện triển khai thực hiện chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Bộ Nội vụ vừa ban hành Thông tư quy định mức lương của chuyên gia tư vấn trong nước làm cơ sở cho việc xác định giá gói thầu theo quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 2 của Luật Đấu thầu.